You are here
Bốc Dịch

Dự đoán theo Mai Hoa Dịch Số - Phần II(2)-Luận đoán

Bát Quái Tâm Dịch Thể Dụng Lệ Luật
Pháp thuật của Tâm dịch là do nơi Thể và Dụng rất thiết yếu.Ta lúc trẻ đọc sách Chu Dịch thường tham khảo Số học để hiểu được Tâm dịch là quái số, trước tiên học khởi quái để biết được cát hung, cũng như dùng gáo để đong lường mước biển, không biết đến chỗ cùng. Sau được Trí nhân truyền trao cho lệ luật Thể Dụng Tâm dịch mới đoán được linh thông. Nhờ sự công hiệu có thể chứng được.

Như người Do Cơ bắn tên trăm phát trăm trúng. Được vậy, nên căn cứ vào Thể Dụng xét lý về Ngũ hành sinh khắc, tỵ hòa để giải bày sự cát hung, cùng biến, nguy nan, ấy là pháp thuật kỳ diệu của Dịch số. Đời mà có người có chí kiên thành nắm được cái thâm bí đó ít có lắm vậy. Thể Dụng Tổng Quyết Như Dịch quái là phơi bày đạo chiêm bốc, thì lấy Dịch quái làm thể, lấy sự chiêm bốc làm Dụng để ngụ ý cho Động và Tịnh quái để phân chia chủ và khách ấy là cái chuẩn tắc của sự chiêm bốc. Đại để cái thuyết Thể và Dụng là:

Thể quái làm chủ, Dụng quái làm sự việc, Hổ quái là trung gian của Sự và Thể, khắc ứng và Biến quái là kết quả của sự việc. Quái khí của Ứng thể thì phải khí thịnh, chớ không được khí suy.

Khí thịnh như:

- Xuân thì Chấn, Tốn.
- Hạ thì Ly.
- Thu thì Càn, Đoài.
- Đông thì Khảm.
- Bốn tháng tứ quý (tháng 5, 6, 9 và 12) thì Khôn, Cấn.

Khí suy như:

- Xuân thì Khôn, Cấn.
- Hạ thì Càn, Đoài.
- Thu thì Chấn, Tốn.
- Đông thì Ly.
- Bốn tháng tứ quý thì Khảm đều gọi là khí suy.

Tha Quái

Thể quái chịu nhận Tha quái sinh, không nên Tha quái khắc Thể.

Tha quái là Dụng quái, Hổ Quái và Biến quái.
- Sinh như: Càn, Đoài thuộc Kim là Thể, gặp Khôn, Cấn thuộc Thổ là sinh.
Khôn, Cấn thuộc Thổ là Thể gặp Ly thuộc Hỏa là sinh.
Ly thuộc Hỏa là Thể mà gặp Chấn, Tốn thuộc Mộc là sinh.

- Khắc như: Thể Kim gặp Hỏa là khắc, Thể Hỏa gặp Thủy là khắc v.v…

Cái thuyết Thể và Dụng tức là Động với Tịnh làm chủ và khách trong Bát Quái Ngũ Hành sinh khắc.

Thể tức là chính mình. Dụng là ứng vào nguyên nhân sự việc.

Vậy nên, Dụng phải sinh ra Thể và Thể phải khắc Dụng mới tốt. Thể mà thịnh thì tốt, Thể suy thì xấu.

Dụng khắc Thể không nên, Thể sinh Dụng cũng bất lợi. Thể có nhiều đảng là Thể thịnh, còn dụng có nhiều đảng tất Thể phải suy.

Tỷ như Thể là Kim, mà Hổ Biến ra đều là quẻ thuộc Kim tức là Thể có nhiều đảng hơn.
Còn như Dụng là Kim, mà Hổ Biến ra đều là quẻ thuộc Kim, tức là Dụng có nhiều đảng hơn.
Thể mà sinh Dụng gọi là Tiết khí (khí lộ ra ngoài như mùa Hạ là Hỏa mà gặp quẻ Thổ nghĩa là Thể là Hỏa mà sinh Dụng là Thổ).

Giữa Thể và Dụng mà tỵ hòa là tốt. Hổ quái là trung gian của biến ứng và thuộc về thời kỳ sau cuối cho nên Dụng trước tốt mà biến ra thấy xấu ấy là triệu trước tốt sau xấu. Còn Dụng trước xấu khi biến ra thấy tốt, ấy là triệu trước xấu sau tốt.

Thể khắc Dụng trăm việc đều hay; Dụng khắc Thể mọi việc đều hỏng; Thể sinh Dụng tất phải hao tài; Dụng sinh Thể tăng phần tươi sáng, Thể và Dụng tỵ hòa trăm việc đều thuận lợi.

Xem Trong Toàn Quái Mà Có Quẻ Sinh Thể
(thì tốt xấu thế nào?)

Quẻ Càn: Sinh Thể thì các việc công môn có sự vui mừng; hoặc công danh hiển đạt, hoặc làm quan có tài, hoặc việc thưa kiện thắng lý. Hoặc có lợi về kim báu, hoặc có người già tuổi tiến tiền của, hoặc có quý nhân tôn trưởng gia ân, hoặc có việc mừng về quan sự.

Quẻ Khôn: Sinh Thể chủ sự vui mừng về ruộng đất, hoặc do điền thổ mà có tài, hoặc có người ở cùng làng đem đến sự lợi ích, hoặc có đàn bà làm lợi cho mình, hoặc có lợi về hoa quả mùa màng, hoặc có lợi về vải lụa.

Quẻ Chấn: Sinh Thể chủ lợi về sơn lâm sản, hoặc do sơn lâm mà phát tài, hoặc có sự vui mừng trong sư hoạt động, hoặc có tài về hướng Đông, hoặc buôn bán về loại mộc có lợi, hoặc có người họ, tên mang bộ thảo mộc làm lợi cho mình.

Quẻ Tốn: Sinh Thể chủ lợi về sơn lâm sản, hoặc do sơn lâm mà có tài, hoặc có tài lợi về hướng Đông Nam, hoặc nhân có người có họ, tên mang bộ thảo mộc làm lợi cho mình, hoặc lợi về quả, trà, hoặc có người biếu tặng trà, quả, rau ráng. Nói tóm lại là tất cả có lợi về loài Thảo Mộc.

Quẻ Khảm: Sinh Thể có sự vui mừng về phương Bắc đem tới, hợac có tài về hướng Bắc, hoặc có người ở gần sông nước đem tới, hoặc buôn bán về nghề cá, muối, rượu, văn thơ giao dịch mà có lợi, hoặc có người cho rượu, cá, muối. Nói tóm lại là tất cả có lợi về loài bộ Thủy.

Quẻ Ly: Sinh thể chủ có tài về hướng Nam, hoặc có người ở hướng Nam làm tài lợi cho mình, hoặc có sự vui mừng về văn thơ, hoặc có lợi về các xưởng đúc, các lò đúc đồ sắt, hoặc có người mang tên bộ Hỏa làm lợi cho mình. Nói tóm lại tất cả có lợi về loại thuộc Hỏa.

Quẻ Cấn: Sinh Thể chủ có tài về hướng Đông Bắc, hoặc có người ở hướng Đông Bắc đem tài lợi, hoặc có tài về sơn lâm điền thổ, hoặc có người có họ tên mang bộ Thổ hay người mang tiếng cung(1) (tức là tiếng cung trong ngũ âm) đem tài lời cho mình, mọi sự đều yên ổn, mọi sự đều có thủy có chung.

Quẻ Đoài: Sinh Thể chủ có tài lợi về hướng Tây, hoặc do người ở hướng Tây đem tài lợi đến, hoặc có sự vui tươi, hoặc được ăn uống, hoặc được lợi về buôn bán vàng ngọc, hoặc có người tên họ mang bộ Khẩu làm lợi cho mình, hoặc chủ khách có việc vui mừng, bè bạn kết tập mua vui, hoặc có người có tiếng thương(2) (tức là tiếng thương trong ngũ âm) làm lợi cho mình.

Ghi chú:
(1) Tiếng Cung, như ta nói người nói giọng Thổ.
(2) Tiếng Thương, như ta nói người nói giọng Kim.
Theo MAI HOA DỊCH SỐ-Của Thiệu Khang Tiết.

 


Nội dung mới hơn:
Nội dung khác: